Thơ Đường luật chia làm hai thể:
A. Thất Ngôn Bát Cú hay còn gọi là luật thi.
A. Thất Ngôn Bát Cú hay còn gọi là luật thi.
Thơ thất ngôn
bát cú là loại thơ mỗi bài có 8 câu và mỗi câu 7 chữ, tức là chỉ có 56 chữ trong
một bài luật thi. Thơ thất ngôn bát cú có thể được làm theo hai luật: luật bằng
và luật trắc. Về vần thì cũng có hai loại: vần bằng và vần trắc. Tuy nhiên, các
nhà thơ thường hay làm theo vần bằng, tức là luật bằng vần bằng và luật trắc vần
bằng.
Tám (8) câu
luật thi được chia ra làm 4 phần: Đề, Thuật, Luận, Kết
Thơ luật có từ
thời nhà Đường nên cũng gọi là Đường Luật. Luật dựa trên những thanh bằng và
thanh trắc trong một câu và niêm giữa các câu với nhau, tạo thành cấu trúc bắt
buộc của bài thơ. Thơ luật gồm tám câu, cấu trúc quy định như sau:
Đề: 2 câu 1,2 mở đầu để nhập đề (cũng gọi là Phá đề)
Thực: Gồm hai câu 3,4 phải đối nhau từng lời và ý, nói rõ chủ đề của
bài thơ. (thực còn được gọi là thuật)
Luận: Gồm hai câu 5,6 cũng theo
luật đối lời đối ý của các câu thực, nhằm tăng ý chính của bài.
Kết:
hai câu cuối cùng, chuyến ý và thâu tóm ý tưởng của bài thơ hoặc có một tứ lạ
gây thêm cảm xúc cho người đọc.
Phần sau này có
phần rắc rối đây, ta phải tỉ mỉ mới được.
Luật
1. "Nhất, tam,
ngũ bất luận. Nhị, tứ, lục, thất phân minh"... Ta có thể nghĩ là chữ thứ 1, 3, 5
trong mỗi câu thơ không cần phải theo vần bằng hay là trắc, nhưng chữ thứ 2, 4,
6 và 7 phải theo đúng vần bằng, trắc và niêm cho thật rõ ràng.(chữ màu xanh ở
dưới)
Luật 2: Chữ thứ 7 của câu 1, 2, 4, 6, 8 phải theo vần với nhau
Luật 3: Câu thứ 3 và 4 phải đối với nhau cả vần lẫn nghĩạ (danh từ
đối danh từ, động từ đối động từ, tĩnh từ đối tĩnh từ .. vân vân và vân vân.)
Luật 4: Câu thứ 5 và 6 phải đối với nhau cả vần lẫn nghĩạ (như luật
3)
Niêm
: Những chữ
phải đi cặp với nhau và dính với nhau.
Câu 2 niêm với
3. Bằng trắc phải rõ ràng.
Câu 2. B
B T T T B B
Câu 3. T B T T B B
T
Câu 4 niêm với
5. Câu 6 niêm với 7 và câu 8 niêm với 1.
Cách
sắp đặt tiếng bằng trắc (luật thơ) trong các câu của bài thơ thất ngôn bát
cú
:
Luật Trắc-vần
bằng:
Câu 1- T T
B B T T B (vần)
Câu 2- B B T T T B B
(vần)
Câu 3- T B T T B B T
Câu 4- B T B B
T T B (vần)
Câu 5- T T B B B T T
Câu 6-
B B T T T B B (vần)
Câu 7- B B T T B B
T
Câu 8- T T B B T T B (vần)
Lấy bài thơ
"Thăng Long Thành Hoài Cổ" của bà Huyện Thanh Quan ra làm mẫu:
Tạo
hoá gây chi cuộc hỉ trường
Đến nay thấm
thoát mấy tinh sương
Lối xưa, dấu ngựa hồn
thu thảo
Nền cũ, lâu đài bóng tịch dương
Đá
vẫn bền gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cao
mặt với tang thương
Nghìn năm gương cũ soi
kim cổ
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường
Luật Bằng- vần bằng:
Câu 1 - B B T T T B B
Câu 2 - T T B B T T B
Câu 3 - T T B B B T T
Câu 4 - B B T T T B B
Câu 5 - B B T T B B T
Câu 6 - T T B B T T B
Câu 7 - T T B B B T T
Câu 8 - B B T T T B B
Lấy bài “Tôn
Phu Nhân Qui Thục” (Bài họa của Phan Văn Trị) làm mẫu:
Cài trâm
sửa áo vẹn câu tòng
Mặt ngả trời chiều biệt
cõi đông
Ngút tỏa trời Ngô un sắc trắng
Duyên về đất Thục đượm màu hồng
Hai vai tơ
tóc bền trời đất
Một gánh cương thường nặng
núi sông
Anh hỡi Tôn Quyền anh có biết?
Trai
ngay thờ chúa, gái thờ chồng
B.
Thất Ngôn Tứ Tuyệt
hay còn gọi là
tuyệt cú.
Thực ra thơ tứ tuyệt hay tuyệt cú đã xuất hiện trước khi có thơ
thất ngôn và ngũ ngôn bát cú. Mới đầu, thơ tứ tuyệt hay tuyệt cú có nghĩa khác
với nghĩa sau này: “tứ” là bốn và “tuyệt” có nghĩa là tuyệt diệu. Chỉ có 4 câu
mà bài thơ diễn tả đầy đủ ý nghĩa của tác giả muốn trình bày nên người ta mới
gọi 4 câu thơ đó là tứ tuyệt hay tuyệt cú. Tuy nhiên, sau khi có thơ thất ngôn
hay ngũ ngôn bát cú (luật thi) vào đời nhà Đường , thơ tứ tuyệt (tuyệt cú) lại
phải được làm theo quy tắc về niêm, luật, đối, và vần của lối thơ thất ngôn hay
ngũ ngôn bát cú. Chính vì thế , sau này người ta giải thích chữ “tuyệt” là ngắt
hay dứt. Điều này có nghĩa là thơ tứ tuyệt là do người ta làm theo cách ngắt lấy
4 câu trong bài bát cú để làm ra bài tứ tuyệt. Vì vậy niêm, luật, đối, và vần
của bài tứ tuyệt phải tùy theo cách ngắt bài bát cú mà thành.
Cách ngắt
những câu trong bài bát cú để làm thành bài tứ tuyệt như sau: ngắt 4 câu đầu,
ngắt 4 câu giữa, ngắt 4 câu cuối, ngắt 2 câu đầu và 2 câu cuối, và ngắt 2 câu
đầu và 2 câu số năm và số sáu. Vậy ta có 5 cách ngắt bài bát cú để làm thành 5
bài tứ tuyệt, mỗi bài vẫn đủ ý, đúng niêm luật, và đối đúng cách. Tuy nhiên, ta
có thể làm ngay một bài tứ tuyệt, thất ngôn hay ngũ ngôn, theo đúng luật thơ của
cách ngắt bài tứ tuyệt từ bài bát cú mà không cần phải làm bài bát cú rồi mới
ngắt ra. Cách giải thích này cốt cho ta thấy rằng có nhiều cách làm thơ tứ
tuyệt. Điều này có nghĩa là khi ta làm một bài tứ tuyệt, ta phải theo niêm,
luật, đối, và vần của một trong năm bài tứ tuyệt được ngắt ra từ bài thất ngôn
hay ngũ ngôn bát cú.
Sau đây là thí dụ về cách ngắt bài thất ngôn bát cú
thành ra 5 bài tứ tuyệt và bài nào cũng đủ ý và đúng luật.
Bác Từ Vịnh
Rung chuông gõ mõ Bác
Từ ta
Lẩn quẩn trong sân sớm tới tà
Kinh kệ ẩn từ mường chẳng hiểu
Sách đèn mờ ảo tưởng không ra
Cơm chay hai bữa nghe chừng đủ
Nước lã
dăm lần sống cũng qua
An phận mõ chuông thanh thản hoá
Hòa đàn vô chướng
ngại gì ma!
Bài trên được
ngắt thành 5 bài tứ tuyệt theo năm cách sau: 4 câu đầu, 4 câu cuối, 4 câu giữa,
2 câu đầu và 2 câu cuối, 2 câu đầu và 2 câu năm sáu:
1. Rung chuông
gõ mõ Bác Từ ta
Lẩn quẩn trong sân sớm tới tà
Kinh kệ ẩn từ mường chẳng
hiểu
Sách đèn mờ ảo tưởng không ra
2. Cơm chay hai
bữa nghe chừng đủ
Nước lã dăm lần sống cũng qua
An phận mõ chuông thanh
thản hoá
Hòa đàn vô chướng ngại gì ma!.
3. Kinh kệ ẩn
từ mường chẳng hiểu
Sách đèn mờ ảo tưởng không ra
Cơm chay hai bữa nghe
chừng đủ
Nước lã dăm lần sống cũng qua
4. Rung chuông
gõ mõ Bác Từ ta
Lẩn quẩn trong sân sớm tới tà
An phận mõ chuông thanh
thản hoá
Hòa đàn vô chướng ngại gì ma!.
5. Rung chuông
gõ mõ Bác Từ ta
Lẩn quẩn trong sân sớm tới tà
Cơm chay hai bữa nghe
chừng đủ
Nước lã dăm lần sống cũng qua.
Bài thất
ngôn tứ tuyệt có thể được làm riêng rẽ, không cần ngắt ra từ bài bát cú. Lý
Thường Kiệt làm bài thơ tứ tuyệt sau đây khi ông đem quân chống quân nhà Tống
(1076). Sở dĩ ông làm ra bài thơ này là vì quân nhà Tống đánh trận hăng lắm, ông
đã đem hết sức chống giặc nhưng vẫn sợ quân mình ngã lòng nên mới đặt ra câu
chuyện nói rằng có thần ban cho 4 câu thơ để củng cố lòng hăng say đánh giặc của
quân lính. Bài này được làm theo cách ngắt của 4 câu đầu của bài bát cú: luật
trắc vần bằng,(vần 3 chữ) hai câu cuối đối nhau:
Nam Quốc sơn hà Nam Đế
cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Sự
phối trí thanh và âm
Bằng là bằng
phẳng, đều đều, bình thường; trắc là nghiêng lệch. Âm thanh đang ở mức bình
thường (bình thanh) chợt bổng lên cao hay đổ xuống thấp hơn (trắc
thanh).
Nếu lựa từ sao
cho có âm và thanh tương hợp thì khi đọc lên sẽ nghe êm tai, ta gọi lời văn có
vần. Hai tiếng vần với nhau khi có âm tương tự và có cùng thanh (hoặc là cùng
bình thanh hoặc là cùng trắc thanh). Trong thơ, vấn đề hợp vần là điều cốt yếu.
Sự phối trí âm thanh nhịp điệu là yếu tố cơ bản của thơ.
1.
Vần
có 2 thứ:
a. Bằng: những
chữ không dấu hoặc dấu huyền —Thí dụ : hai, hài
b. Trắc: những
chữ có dấu hỏi, ngã, sắc, nặng —Thí dụ : hải, hãi, hái,
hại.
Tiếng bình
không vần với tiếng trắc: hai không vần với hải.
Thí dụ câu thơ
song thất lục bát :
Cùng trông mà lại cùng chẳng thấy
Thấy
xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng, ý thiếp, ai sầu hơn ai?
Những tiếng
"thấy", "mấy" cùng phát ra một âm "ây" cùng gieo trắc
thanh. Những tiếng "dâu", "màu", "sầu" có âm "âu" và
"au" tương tự, cùng gieo bình thanh. Tất cả từng cặp một như thế gọi là
vần với nhau.
2.
Vần thể giàu hay nghèo:
a. Vần bằng
giàu: những tiếng có cùng âm và thanh như
Phương, sương, cường, trường
.
.Vần trắc giàu:
những tiếng có cùng âm và thanh như
Thánh, cảnh, lãnh, ánh
.
b. Vần bằng
nghèo: đồng thanh nhưng với âm tương tự
Minh, khanh, huỳnh, hoành
.
.Vần trắc nghèo
: đồng thanh nhưng với âm tương tự
Mến, lẽn, quyện, hển
.
Mình yêu thơ
thì hãy cứ làm thơ một cách tự nhiên trước, miễn sao diễn tả được ý của mình và
có âm điệu là được. Có Đường luật thì cũng có cổ phong, có lục bát thì cũng có
biến thể lục bát. Rồi dần dần quen đi, mình sẽ làm thơ một cách dễ dàng, xuất
khẩu thành thơ, và tự nhiên thành luật. Đừng vì niêm luật hay đối quá mà làm bài
thơ gượng gạo mất hồn thơ của các mình đi. Muốn làm thơ một cách tự nhiên và cảm
động được lòng người, mình cần phải có tâm hồn thơ và yêu thơ. Kế tiếp mình phải
tìm đọc những tác phẩm trứ danh trong văn chương như Truyện Kiều của Nguyễn Du,
thơ Bà Huyện Thanh Quan, thơ Hồ Xuân Hương, thơ Hồ Dzếnh, thơ Xuân Diệu, thơ
TTKH, thơ Nguyễn Bính, thơ Vũ Hoàng Chương, thơ Bàng Bá Lân, thơ Chu Mạnh Trinh,
thơ Tản Đà, thơ Nguyễn Công Trứ, thơ Nguyễn Khuyến, thơ Thế Lữ, và ca dao, v.v.
Không những đọc mà mình còn phải học thuộc lòng để đưa vào tiềm thức những cung
điệu, những tứ thơ kỳ diệu, và những chất liệu giúp mình làm thơ một cách tự
nhiên hơn. Khi có hồn thơ lai láng, hãy cứ viết ra cho hết ý, rồi đọc lại để
kiểm soát niêm luật sau. Cứ như thế mình sẽ đi vào thơ một cách tự nhiên. Ôn
rồi, ngày mai thong thả sẽ dzợt lại.
Đường
Luật: Các Cổ Thể trong Đường Thi
Trong thơ Đường
Luật ở VN được lưu hành ngàn năm nên cũng có đóng góp thêm khá phong phú đó là
lối thơ độc đáo , thể thơ nầy văn ngôn không có lưu truyền lại nhưng trong thơ
Nôm lại được ghi nhận là một tài hoa. Thơ nầy phù hợp với tính vui nhộn nghịch
ngợm của các thầy nho VN trong các cuộc thù tạc, gặp mặt thi tài nhau, một số
lưu lại có tên tuổi, nhưng đa số là khuyết danh.
1)
Thủ Vĩ Ngâm
Loại
thơ nầy câu đầu và câu cuối (câu 1 và câu 8) là một, để nhấn mạnh ý tứ bài thơ.
Thí dụ:
Anh em đừng nghĩ tết tôi
nghèo
Tiền bạc trong kho chửa lĩnh tiêu
Rượu cúc nhắc đem , hàng
biếng quẩy
Trà sen mượn hỏi , giá còn kiêu
Bánh đường sắp gói ,e nồm
chảy
Giò lụa toan làm sợ nắng thiu
Thôi thế thì thôi đành tết khác
Anh em đừng nghĩ tết tôi nghèo
Trần
Tế Xương
2)Thể
Thơ Bỏ Lững
Thể
nầy gọi là Tiệt Hạ (bỏ lững câu cuối), mỗi câu thơ ở phần cuối dùng từ lấp lững
không tròn nghĩa để người đọc tự đoán lấy mà hiểu ...
Thí
dụ:
Người Đâu
Thác bức rèm châu chợt thấy Mà ...
Chẳng hay người ấy có hay Là...
Nét Thu dợn sóng hình như Thể...
Cung Nguyệt quang mây nhác ngỡ Là...
Khuôn khổ ra chiều người ở Chốn...
Nết na xem phải thói con Nhà...
Dở dang nhắn gửi xin thời Hãy...
Tình ngắn tình dài chút nữa Ta...
Khuyết Danh
NHẮN AI
Tơ đồng réo rắt điệu NHƯ ĐANG...
Thánh
thoát du dương đến TỪ ĐÀNG...
Khi bổng khi trầm như SẮP ĐẢ...
Lúc buồn
lúc oán giống DƯỜNG MANG...
Bi ai thống thiết nghe MÀ MUỐN...
Thảm nảo
thê lương ngỡ PHẢI CHĂNG ...
Lỡ phận gởi người xin ĐÓ HÃY...
Tình đà
dang dỡ có CÒN THAN...
3)Thể
chữ Cuối Gợi Âm ( Vĩ Tam Thanh)
Thể
nầy gọi Là Vĩ Tam Thanh , cuối câu có ba âm thanh , thuộc thể nghịch ngợm ...
Thí dụ:
Buổi Sớm
Tai nghe gà gáy Tẻ Tè Te
Bông cúc vừa lên Hé Hẻ Hè
Non một chồng cao
Von Vót Vót
Hoa năm sắc nở Loẻ Loè Loe
Chim tình bầu bạn Kia Kìa Kỉa
Ong nghĩa vua tôi Nhẹ Nhẻ Nhè
Danh lợi mặc người Ti Tỉ Tỉ
Ngũ trưa
trưa dậy Khoẻ Khoè Khoe
Khuyết Danh
MÙA GẶT
Ai đang nhẩy múa
LÁ LÀ LA
Mùa gặt thu mua CẢ CÁ CÀ
Tay bắt mặt mừng KHOE KHOẺ KHOẺ
Miệng cười môi hát HÁ HÀ HA
Sương chiều lộng gió VI VI VÚT
Nắng xế
che mây NGÃ NGÃ NGÀ
Bướm lượn vườn hoa NHƠN NHỠN NHỠN
Sắc hương nồng
thắm XÃ XÀ XA
4)THỂ
CẶP TỪ TRÙNG
Thể nầy
gọi là Song Điệp ( cặp từ trùng nhau) còn gọi là thể Điệp Từ
Thí dụ:
SỰ ĐỜI
Vất Vất , Vơ Vơ cũng nực cười
Căm Căm , Cúi Cúi có hơn ai
Nay còn Chị Chị ,Anh Anh đó
Mai đã Ông Ông , Cụ Cụ rồi
Có Có , Không
Không lo hết kiếp
Khôn Khôn , Dại Dại chết xong đời
Chi bằng Láo Láo ,Lơ
Lơ vậy
Ngủ Ngủ ,Ăn Ăn nói chuyện chơi
Khuyết Danh
THÓI ĐỜI
Lơ lơ, lững lững cứ thầm say
Chán chán , chê chê những chuỗi ngày
Thẩn thẩn , thờ thờ câu thế sự
Ngơ ngơ , ngác ngác chuyện trần ai
Còn tiền đệ đệ , huynh huynh viếng
Hết bạc ông ông , tớ tớ bay
Hững
hững . hờ hờ cho hết kiếp
Cười cười , nói nói thói đời
nay
5)THỂ
LIÊN HOÀN
Thể
nầy thường gồm nhiều bài , câu cuối của bài đầu thành câu đầu của bài sau .thể
nầy có thể dùng hai chữ cuối bài đầu làm hai chữ đầu của bài sau , hoặc dùng 3,
4,5, 7 chữ ....
Thí dụ:
HỦ NHO TỰ TRÀO
Ngán nổi nhà nho bọn
hủ ta
Hủ sao hủ gớm hủ ghê mà
Thơ suông nước ốc còn ngâm váng
Rượu
bự non chai vẫn chén khà
Múa mép rõ ra văn chú chiệc
Dài lưng quen những
thói con nhà
Phen nầy cái hủ xua đi hết
Cứ để hù nhau hủ mãi a
Cứ để hù nhau hủ mãi a
Cười ta ta cũng biết rằng ta
Trót quen
nho nhã đầu khăn lượt
Hoà kém văn minh cổ áo là
Khó vậy làm em ,giàu đả
chị
No thì nên bụt ,đói ra ma
Nay đương buổi học ganh đua mới
Còn
giử lề xưa mãi thế mà
Tình Si Tử
(Câu cuối trở lại câu thơ đầu
của bài )
CẢNH SẮC BA MIỀN
Ngâm hát vài câu tỏ chút lòng
Cố
hương yêu dấu mãi nghìn trông
Nam Quan đất mẹ khơi niềm nhớ
Bắc Ải quê
cha gợi nổi mong
Lịch sử oai hùng tô gấm vóc
Văn chương thanh nhã điểm
non sông
Ít dòng tha thiết về bên ấy
Lưu luyến ngậm ngùi lệ mãi đong
Mãi đong hình bóng một quê hương
Nam tú , Huế thanh ,Bắc phú cường
Thiên Mụ đôi bờ xanh bóng Liễu
Vân
Lâu dọc bến mát hàng Dương
Chiều trông núi Ngự mây vờn gió
Xế ngắm Sông
Hương khói quyện sương
Vĩ Dạ thôn nghèo Cau thẳng tấp
Trường Tiền mấy
nhịp mấy ngàn thương
6)THỂ XUÔI
NGƯỢC
Còn gọi là Thuận Nghịch Đọc nghĩa là đọc xuôi cũng được
hay đọc ngược cũng được, đọc từ trên xuống và ngược từ dưới lên trên đều được cả
.còn có thể bỏ 2, 3 ,4 chữ đọc ngược xuôi tuỳ ý
Đền Ngọc Sơn ( đọc xuôi)
Linh uy nổi tiếng thật là đây
Nước chắn , hoa rào một khoá mây
Xanh biếc , nước soi hồ lộng bóng
Tím bầm rêu mọc đá tròn xoay
Canh tàn lúc đánh chuông ầm tiếng
Khách vắng khi đưa ,xạ ngát bay
Thành thị, tiếng vang dồn thích thú
Rành rành nọ bút với nghiên nầy
Đền Ngọc Sơn ( đọc ngược )
Nầy nghiên với bút nọ rành rành
Thú thích dồn vang tiếng thị thành
Bay ngát xạ đưa khi vắng khách
Tiếng ầm chuông đánh lúc tàn canh
Xoay tròn đá mọc rêu bầm tím
Bóng lộng hồ soi nước biếc xanh
Mây khoá một rào hoa chắn nước
Đây là thật tiếng nổi uy linh
Vô Danh
7) Thơ Xướng Hoạ
Xướng Hoạ là thể thơ
khá phổ biến trong thơ Đường Luật , người kia Xướng một bài, người sau hoạ theo
Cách hoạ là phải giữ nguyên vần của người Xướng , nhưng từ đứng trước vần
không được lập lại từ trước vần của bài Xướng
Thì dụ:
(Bài Xướng )
TÔN PHU NHÂN QUI THỤC
Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ tòng
Ngàn Thu rạng tiết gái Giang Đông
Lìa Ngô bịn rịn chòm râu bạc
Về Hán trao tria mảnh má hồng
Son phấn thà cam đầy gió bụi
Đá vàng chi để thẹn non sông
Ai về nhắn với Châu Công Cẩn
Thà mất lòng anh được bụng chồng
Tôn Thọ Tường
(Bài Hoạ )
Cài trâm xốc áo vẹn câu tòng
Mặt ngả trời chiều biệt cõi Đông
Ngút toả trời Ngô un sắc trắng
Duyên về đất Thục đượm màu hồng
Hai vai tơ tóc bền trời đất
Một gánh cương thường nặng núi sông
Anh hởi Tôn Quyền, anh có biết
Trai ngay thờ chúa, gái thờ chồng
Phan Văn Trị
(Bài Xướng)
Bóng Nguyệt Đời Tôi
Trăng là bóng nguyệt, nguyệt đời tôi
Mười sáu tôi mơ mơ cuộc đời
Thơi thái bên dòng dòng chậm chảy
Êm đềm nối gót gót từ trôi
Thơ ngây chớ vội vội mơ ước
Sầu hận đừng về về bóng côi
Trong nguyệt rạng ngời ngời thánh thoát
Trăng mùa lưu viễn viễn ngàn khơi.
Bác Từ
(Bài Hoạ)
Nhân
Quả
Nhân quả đời người người có tôi
Vòng xoay luân chuyển chuyển trên đời
Kẻ gieo hạt đắng đắng ngày tới
Người cấy hoa thơm thơm kiếp trôi
Quả ngọt ăn vui vui thoải mái
Trái cay nuốt tủi tủi mồ côi
Tâm tư trĩu nặng nặng cô đọng
Thanh bạch hương tràn tràn bể khơi
Từ Thức
Nhân quả đời người người có tôi
Vòng xoay luân chuyển chuyển trên đời
Kẻ gieo hạt đắng đắng ngày tới
Người cấy hoa thơm thơm kiếp trôi
Quả ngọt ăn vui vui thoải mái
Trái cay nuốt tủi tủi mồ côi
Tâm tư trĩu nặng nặng cô đọng
Thanh bạch hương tràn tràn bể khơi
Từ Thức
8) Các Thể Thơ Mới:
Thể LƯỠNG ĐẦU XÀ NGHỊCH THIỆT .thể nầy dùng HAI CHỮ ĐẦU LÁY LẠI THÀNH HAI CHỮ CUỐI CỦA CÂU THƠ
Thí dụ:
LƯỠNG THƠ LỠ THƯƠNG
Lưỡng thơ gửi bậu bởi lỡ thương
Thường tấu nàng ơi xin thấu tường
Nuốt rạt trái mơ nên nát ruột
Tương hầm khổ quả mới tâm hường
Tạm thương qua thử đừng tham tượng
Mương lếch đừng nha chớ mếch lương (1)
Thỏ, nhím chung nhà làm thím nhỏ
Nường than chi hỡ bớ nàng thương ?
CH
(1) mếch = yêu
Vô Danh Khúc
Hoàng hôn thơ thẩn thả hồn hoang
Đàn vọng buồn ngân khúc động vàng
Óng mượt tơ rung lời ước mộng
Tràn ngâm phiếm hoạ tiếng trầm ngang
Giản đơn cung hận như đang giỡn
Than lắm điệu buồn lại thắm lan
Để lộ nổi lòng nên đổ lệ
Tàn buông xế lịm khó buồn tan
TTT...
THỂ NGẮT TỪ
CÂU THƠ CUỘC RƯỢU I
Quế lộ thơm râu, ấm giọng: ngon
Cạn ly thắm nghĩa, đệ huynh: tròn
Thi nhân ấy khách tài hoa: quý
Hào kiệt vốn người nghia khí: tôn
Danh lợi mặc đời , ai hỏi : bán
Thảnh thơi, tôi bạn dốc bầu : tuôn
Rượu thơ rủng rỉnh, tình chan: chứa
Xướng hoạ đôi câu, Quên hết: buồn
CH
Bài hoạ
Rượu vừa mới nếm gật đầu : ngon
Bạn đó tôi đây nghĩa thắm : tròn
Tứ hải tao phùng hào kiệt : quý
Ngũ hồ tri ngộ sĩ nhân : tôn
Bán mua danh lợi tuỳ người : bán
Say xỉn sự đời mặc tớ : tuôn
Ca phú thi từ vui hát : hoạ
Vùi chôn ký ức nổi đau : buồn
TTT...
THƠ KHOÁN THỦ:
Thể thơ được viết bằng các chữ Khởi Đầu là một câu thơ :
Thí dụ:
Em Ơi Nếu Mộng Không Thành Thì Sao
EM vui duyên mới lệ anh vương
ƠI cảnh trần gian lắm đoạn trường
NẾU cuối thu vàng sầu cách biệt
MỘNG đầu đông biếc khóc ly hương
KHÔNG gian trầm lắng mờ mây khói
THÀNH phố im lìm quyện gió sương
THÌ gởi tiếng lòng thêm tủi thẹn
SAO khuya buồn rụng cuối sông Tương
Tuấn Sơn
Bài hoạ
THÌ TA HAI ĐỨA CÁCH XA TRỌN ĐỜI
THÌ rồi hai ngã khỏi còn vương
TA nhớ mà chi để đoạn trường
HAI lối một mình xem Cẩm Chướng
ĐỨA về đơn lẽ ngắm THiên Hương
CÁCH chia giữa lúc chiều phai nắng
XA biệt trong mùa xế lộng sương
TRỌN kiếp không thành thôi lở hẹn
ĐỜI đời ôm ấp mộng sầu tương.
Vô Danh Khúc
Hoàng hôn thơ thẩn thả hồn hoang
Đàn vọng buồn ngân khúc động vàng
Óng mượt tơ rung lời ước mộng
Tràn ngâm phiếm hoạ tiếng trầm ngang
Giản đơn cung hận như đang giỡn
Than lắm điệu buồn lại thắm lan
Để lộ nổi lòng nên đổ lệ
Tàn buông xế lịm khó buồn tan
TTT...
THỂ NGẮT TỪ
Thể nầy ngắt từ cuối của câu ,
gây đột ngột cho người đọc , và đặt biệt là cho dù bỏ đi chữ cuối thì bài thơ
vẫn còn nghĩa :
CÂU THƠ CUỘC RƯỢU I
Quế lộ thơm râu, ấm giọng: ngon
Cạn ly thắm nghĩa, đệ huynh: tròn
Thi nhân ấy khách tài hoa: quý
Hào kiệt vốn người nghia khí: tôn
Danh lợi mặc đời , ai hỏi : bán
Thảnh thơi, tôi bạn dốc bầu : tuôn
Rượu thơ rủng rỉnh, tình chan: chứa
Xướng hoạ đôi câu, Quên hết: buồn
CH
Bài hoạ
Rượu vừa mới nếm gật đầu : ngon
Bạn đó tôi đây nghĩa thắm : tròn
Tứ hải tao phùng hào kiệt : quý
Ngũ hồ tri ngộ sĩ nhân : tôn
Bán mua danh lợi tuỳ người : bán
Say xỉn sự đời mặc tớ : tuôn
Ca phú thi từ vui hát : hoạ
Vùi chôn ký ức nổi đau : buồn
TTT...
THƠ KHOÁN THỦ:
Thể thơ được viết bằng các chữ Khởi Đầu là một câu thơ :
Thí dụ:
Em Ơi Nếu Mộng Không Thành Thì Sao
EM vui duyên mới lệ anh vương
ƠI cảnh trần gian lắm đoạn trường
NẾU cuối thu vàng sầu cách biệt
MỘNG đầu đông biếc khóc ly hương
KHÔNG gian trầm lắng mờ mây khói
THÀNH phố im lìm quyện gió sương
THÌ gởi tiếng lòng thêm tủi thẹn
SAO khuya buồn rụng cuối sông Tương
Tuấn Sơn
Bài hoạ
THÌ TA HAI ĐỨA CÁCH XA TRỌN ĐỜI
THÌ rồi hai ngã khỏi còn vương
TA nhớ mà chi để đoạn trường
HAI lối một mình xem Cẩm Chướng
ĐỨA về đơn lẽ ngắm THiên Hương
CÁCH chia giữa lúc chiều phai nắng
XA biệt trong mùa xế lộng sương
TRỌN kiếp không thành thôi lở hẹn
ĐỜI đời ôm ấp mộng sầu tương.
Mình thích thể Thơ "thất ngôn Bát cú" theo luât trắc vầ bằng.cảm ơn bạn về entry này.
ReplyDeleteKhông có chi!
ReplyDeleteCứ tự nhiên đọc và tìm hiểu nhé!
This comment has been removed by the author.
ReplyDeleteLuật bằng vần trắc bên này nó hiển thị kỳ quá,nó không xuống hàng mà dính liền nhau.
ReplyDeleteNgười đi dải nắng cũng tàn phai
ReplyDeleteGió rít âm vang tựa nhớ ai
Ngõ vắng thênh thang buồn lạnh lẽo
Đêm dài lắm mộng tiếc u hoài.
Ngày xưa chẳng biết buồn và nhớ
Đắm đuối bên nhau suốt tháng ngày
Lúc vắng người rồi,hồn chợt tỉnh
Ôm hoài tiếc nuối thuở kề vai.
Thơ hay lắm!
ReplyDeleteCám ơn đã chia sẻ.