Trong thế giới sinh vật, ong là một sinh vật rất đặc biệt bởi khả năng sinh tồn
và sinh hoạt cộng đồng, bầy đàn cũng như việc tạo mật ong từ việc hút mật hoa,
và nhiều khả năng đặc biệt độc đáo khác. Nhiều nhà nghiên cứu đã kinh ngạc khi
quan sát ong mật và những khả năng hết sức tài tình của chúng.
Sau đây
là vài điều rất lý thú về ong.
Ong mật được biết đã tồn tại 30 triệu
năm.
Đây là loài côn trùng duy nhất sản xuất thức ăn cho con
người.
Ong mật thân thiện với môi trường và quan trọng như các loài thụ
phấn.
Chúng là những côn trùng có tên khoa học là Apis mellifera.
Chúng có
sáu chân, hai mắt, hai cánh, một túi mật, và dạ dày.
Các cánh của ong mật vỗ
11.400 lần mỗi phút, do đó, làm thành âm thanh đặc biệt của chúng.
Một
con ong mật có thể bay cao đến sáu dặm và nhanh 15 dặm một giờ, do đó, nó sẽ
phải bay khoảng 90.000 dặm - ba lần trên toàn cầu - để làm một pound mật
ong.
Ong mật là loài ong duy nhất có các mắt kép có lông.
Một con ong
mật thăm từ 50 đến 100 bông hoa trong một chuyến đi hút mật của nó.
Ong mật
có thể cảm nhận chuyển động được phân cách bởi 1/300 của một giây. Con người chỉ
có thể cảm nhận được chuyển động cách nhau bởi 1/50 của một giây. Nếu 1 con ong
đi xem phim, nó chỉ có thể thấy từng thước phim riêng biệt.
Vòi chích của
ong mật có một ngạnh neo ngòi trong cơ thể của nạn nhân. Ong sau khi chích bỏ
lại ngòi và túi nọc độc phía sau và chết ngay vì vỡ bụng.
Ong mật liên lạc
với nhau bằng cách "nhảy múa" để cung cấp phương hướng và khoảng cách của
hoa.
Ong mật trung bình chỉ làm có một muỗng cà phê rưỡi mật ong trong
suốt cuộc đời của nó.
Ong mật sản xuất sáp ong từ tám tuyến kết nối ở mặt
dưới bụng của nó.
Ong mật phải tiêu thụ khoảng 17-20 kg mật ong để có thể
sinh hóa sản xuất mỗi cân sáp ong.
Ong Chúa
Ong Chúa là
con cái (con mái) duy nhất trong tổ để duy trì sự sinh sản.
Các Ong Chúa
sống trong khoảng 2-3 năm và là con ong duy nhất đẻ trứng. Nó bận rộn nhất trong
những tháng mùa hè, khi tổ ong cần phải có sức mạnh tối đa của nó, và đẻ tới
2.500 trứng mỗi ngày.
Một ong chúa đẻ 200.000 trứng trong một
năm.
Trứng đã thụ tinh sẽ trở thành con cái, trong khi trứng không được
thụ tinh sẽ trở thành con đực.
Ong Chúa có thể giao phối với 17 ong đực
trong khoảng thời gian 1-2 ngày.
Ong Chúa lưu trữ tinh trùng từ những giao
phối trong tử cung, do đó, nàng có một nguồn cung cấp suốt đời và không bao giờ
cần tình nữa.
Một con ong chúa có thể kiểm soát dòng chảy của tinh trùng
để thụ tinh cho một quả trứng. Ong mật có một hệ thống xác định giới tính di
truyền bất thường được gọi là haplodiploidy. Những con ong thợ được sản xuất từ
trứng thụ tinh và có một bộ (đôi) của nhiễm sắc thể. Những con đực, phát triển
từ trứng chưa thụ tinh và do đó đơn bội với chỉ một bộ duy nhất của nhiễm sắc
thể.
Ong Đực
Những con ong mật nam được gọi là drones, và
chúng không làm công việc gì cả, không có ngòi chích, tất cả những gì chúng làm
là giao phối.
Ong Thợ
Ong Thợ là những ong cái mà hệ thống
tình dục ít phát triển.
Ong Thợ sống trong khoảng bốn tuần vào mùa xuân
hoặc mùa hè, nhưng lên đến sáu tuần trong mùa đông.
Bộ não của một con
ong thợ là một milimét khối, nhưng có mô neuropile đậm đặc nhất của các loại
động vật.
Trong quá trình của cuộc đời mình, một con ong thợ sẽ sản xuất
một muỗng cà phê rưỡi mật ong.
Con ong thợ chỉ chích, chỉ khi nó cảm thấy
bị đe dọa và nó sẽ chết ngay sau khi chích.
Ong Chúa có một ngòi, nhưng
không rời khỏi tổ để giúp bảo vệ nó.
Người ta ước tính rằng phải có 1100 mũi
chích của con ong mật ong đốt mới có thể gây tử vong.
Bầy
Ong
Một Bầy
Ong, Tổ ong gồm 20,000-60,000 ong mật và ong chúa.
Mỗi bầy ong mật có một mùi
duy nhất để xác định các thành viên.
Một tổ ong bao gồm các tế bào lục
giác với những bức tường chỉ có 2/1000 inch dày, nhưng hỗ trợ 25 lần trọng lượng
của mình.
Trong suốt mùa đông, những con ong mật ăn mật ong thu thập
trong những tháng ấm hơn. Chúng tạo thành một cụm chặt chẽ trong tổ của mình để
giữ ong chúa và tự làm ấm.
Ong là loài côn trùng có tổ chức xã hội cao
như kiến, mối. Ong sống theo đàn, mỗi đàn đều có ong chúa, ong thợ, ong non,...
và có sự phân công công việc rõ ràng. Ong có nhiều loài khác nhau, các loài được
con người nuôi để khai thác sản phẩm như mật ong, sáp ong, sữa ong
chúa,...
Ong thường sống thành đàn, nhiều nhất có khi tới 25.000 – 50.000
con, trong các tổ ở hốc cây, kẽ đá, bụi rậm, trong rừng, hoặc các tổ hòm cải
tiến do người nuôi làm cho nó ở.
Tương tự như loài kiến và mối, tổ ong có
ong chúa chuyên đẻ trứng, ấu trùng do trứng nở ra được nuôi bởi ong thợ (các con
ong thợ này là các con cái mất khả năng sinh sản), những ấu trùng này sẽ lớn lên
thành ong non và cuối cùng, trong đàn ong còn có ong đực, có số lượng rất ít
trong tổ khoảng 200 con, chúng chết đi sau khi giao phối với ong
chúa.
Ong chúa là con ong cái duy nhất có quyền đẻ trứng trong đàn ong,
dài và to hơn các ong đực, ong thợ, cánh ngắn hơn thân, có nhiệm vụ đẻ trứng
nhưng không làm ra mật, ong chúa nở từ một cái trứng như các trứng khác, nhưng
ấu trùng được nuôi bằng tuyến nước bọt của ong thợ đặc biệt rất bổ, chứa trong
một ổ riêng chỉ sử dụng cho ong chúa hoặc ong chuẩn bị phát triển thành ong
chúa. Ong chúa sống 3 - 5 năm, mỗi tổ chỉ có một con ong chúa, nếu trong tổ có
nhiều ong sẽ tách thành tổ mới, thường vào mùa xuân.
Ong đực to hơn ong
thợ, làm nhiệm vụ giao phối với ong chúa mỗi khi ong chúa bay ra. Ong đực thường
xuất hiện vào mùa hè và chỉ sống 1 - 2 tháng, sang mùa thu thì bị đuổi ra khỏi
tổ mà chết do bị bỏ đói.
Ong thợ đông nhất, làm đủ mọi việc: lấy mật,
nuôi ấu trùng, bảo vệ tổ, thường sống 2 - 6 tháng.
Ong
mật
Con ong cho mật thuộc giống Apis (Apis mellifca, Apis cerana
Fabr, Apis ligustica, Apis sinensis,...) hoặc các giống Maligona, Trigona,...
đều thuộc họ ong (Apidae). Ong mật còn gọi là ong khoái, to con hơn, đốt đau, tổ
thường ở các hốc cây, hốc đá, có thể bắt về nhà nuôi được.
Mật
ong
Tên khoa học: Mel.
Tên khác: Phong mật (TQ) – Bách hoa tinh -
Bạch hoa cao – Phong đường - Bạch mật - Thạch mật – Miel d’abeilles (Pháp) –
Honey (Anh).
Mật ong là một chất lỏng sền sệt, do nhiều giống ong hút nhuỵ,
mật của nhiều loại hoa đem về tổ chế biến mà thành.
KEO ONG TRỊ VIÊM LOÉT
DẠ DÀY TÁ TRÀNG
Keo ong là nhựa của các loài cây (nhất là các chồi mầm)
được con ong nghiền nát luyện với sáp mà thành, có màu nâu hay vàng sẫm.
Keo ong trị viêm loét dạ dày tá tràng:
- Nước keo ong: Keo ong 10g
cắt nhỏ, cho vào 100ml nước sôi để nguội, chưng cách thủy, khuấy đều bằng đũa
tre cho tan keo. Ngày dùng 3-4 lần, mỗi lần 30-40 giọt trước bữa ăn để chữa bệnh
đau loét dạ dày - tá tràng.
- Rượu keo ong loại 10% và 30% được dùng điều trị
cho các bệnh nhân bị nhiễm phóng xạ với kết quả rất tốt (theo các giáo sư người
Nga V.M.Frelov và N.A.Perassadin).
Rượu keo ong 40% dùng trong thời gian
dài với liều 5-10ml hằng ngày có tác dụng ức chế khối u, nhất là ung thư tuyến
tiền liệt.
Ngoài ra, keo ong còn được dùng dưới dạng xông hơi, viên ngậm
để điều trị các bệnh đường hô hấp như cúm, viêm họng, viêm phế quản, chứng hơi
thở hôi, và có khả năng chống virus gây bệnh.
Ong dùng loại keo này để
gắn các khung cầu của bánh tổ, bịt kín các khe hở và bọc lấy xác các côn trùng
bị chết trong tổ ong. Nhờ đó mà tổ ong tránh được ẩm ướt do mưa, khỏi gió lạnh
và không bị bẩn thỉu, hôi hám.
Thành phần hóa học của keo ong gồm 50-55%
dầu nhựa, 8-10% tinh dầu, 30% hợp chất sáp và 5% phấn hoa.
Trong y học cổ
truyền, keo ong được dùng với tên thuốc là phong giao, có vị nhạt, tính bình, có
tác dụng sát khuẩn, kích thích hệ miễn dịch, bảo vệ và phục hồi sự phát triển
của da.
Có thể dùng keo ong dưới các dạng thuốc sau:
- Dầu keo ong gồm
keo ong 40% cắt nhỏ, trộn với dầu thực vật (dầu lạc hoặc dầu vừng) 60%, đun nhỏ
lửa cho tan keo. Để nguội. Ngày bôi nhiều lần chữa các thể chàm và một số bệnh
ngoài da khác như mụn rộp, eczema...
MẬT ONG
Tên khác: Bách hoa tinh, Bách
hoa cao, Phong mật, Honey bee (Anh), Abeille de miel (Pháp).
Nguồn gốc: Là
mật của Ong mật gốc Á (Apis cerana Fabricius) hay Ong mật gốc Âu (Apis melifera
L.), họ Ong mật (Apidae).
Mật ong là một chất lỏng, đặc sánh, hơi trong,
dính nhớt, có màu trắng đến màu vàng nhạt (gọi là mật trắng) hoặc có màu hơi
vàng cam đến màu hổ phách (gọi là mật vàng). Mùa hạ, mật ong sáng bóng, trong
như dầu. Về mùa đông, khi nhiệt độ xuống thấp, mật kết tinh một phần, giống như
dầu sáp, chứa các hạt. Mùi thơm, vị rất ngọt.
Cách lấy mật ong: Ong làm
mật quanh năm, nhưng mùa thu hoạch mật tốt nhất là mùa xuân-hạ. Ở VN, người sành
nghề lấy mật ong ở thiên nhiên, có kinh nghiệm xem bụng ong để biết đã đến lúc
thu hoạch mật chưa. Nếu bụng ong có mầu vàng nhạt là tổ mới bắt đầu làm, khắp
bụng vàng óng là tổ đầy mật, bụng vàng sẫm là tổ đã hết mật. Khi đi rừng lấy mật
ong, họ mang rễ Dừa theo người, rồi đốt lấy khói, hun lùa vào tổ ong. Khói rễ
Dừa sẽ làm ong cay khó chịu, sẽ bay ra khỏi tổ. Lúc này, họ sẽ cắt tầng sáp chứa
đầy mật một cách dễ dàng, rồi bóp, vắt, ép để lấy mật, lọc. Mật thu được có mầu
vàng thẫm, xỉn đục, phẩm chất kém hơn vì có lẫn sáp, ấu trùng và một số tạp chất
khác. Ở các cơ sở nuôi ong có quy mô công nghiệp, hiện nay người ta dùng máy ly
tâm để lấy mật, vừa đỡ tốn công, được nhiều mật, vừa giữ nguyên được tầng sáp
(ong không phải xây lại tổ), lại bảo đảm được chất lượng của mật.
Thành
phần hoá học:
+ Đường Glucose và levulose (60-70%); saccarose (3-10%),
mantose, oligosacarid
+ Vitamin B2, PP, B6
+ Men Diastase, catalase,
lipase.
+ Các acid hữu cơ: acid Panthotenic, a.formic, tartric, citric,
malic, oxalic…
+ Các chất khoáng và các nguyên tố vi lượng: Na, Ca, Fe, K,
Mg, Cl, P, S, I, V, Bo, Cr, Cu, Zn, Pb, Li, Sn, Ti…
+ Các hormon, chất thơm,
nước (18-20%)…
+ Albumin
Công năng: Bổ trung, nhuận táo, chỉ thống,
giải độc, làm giảm độ acid của dịch vị.
Công dụng: Thuốc bổ, điều trị loét dạ
dày, người suy nhược, phế ráo, ho khan, ruột ráo, táo bón.
Cách dùng, liều
lượng: Ngày 10-50g dùng riêng hay phối hợp với các vị thuốc khác.
Bài
thuốc:
1. Tăng sức đề kháng cho cơ thể, phòng chống nhiễm trùng. Hàng
ngày nên ăn 5 thìa mật ong, có thể ăn với bánh mì hoặc uống với trà, sữa
tươi.
2. Bồi bổ cơ thể: Mật ong đánh kem với lòng đỏ trứng gà, ăn mỗi ngày
một quả sẽ làm da dẻ hồng hào, cơ thể khoẻ mạnh.
3. Hồi phục sức lực sau khi
ốm dậy: Mật ong trộn với bột Tam thất ăn mỗi bữa một chén con có thể giúp.
4.
Bị cảm cúm: Uống một cốc nước chanh nóng có pha thêm 2 thìa mật ong.
5. Trị
ho: Một quả chanh tươi, khía kiểu múi khế ở ở lớp vỏ ngoài, sau đó cho một vài
thìa cà phê mật ong cho ngấm đủ toàn bộ quả chanh trong một cái chén. Để khoảng
1-2 giờ sau đó cắt ra ngậm sẽ đỡ ho ngay.
6. Dùng ngoài khi da bị trầy xước:
Làm sạch vết thương rồi bôi mật ong lên, vết xước sẽ mau lành và không bị nhiễm
trùng hay sưng tấy.
7. Chữa viêm loét dạ dày: Mật ong trộn với bột nghệ đen
(thể hàn), nghệ vàng (thể nhiệt) có thể ăn liền trong 1-2 tháng.
8. Tưa lưỡi
trẻ em do nhiễm nấm Candida abicans: Dùng mật ong nguyên chất nhỏ 1 giọt vào
miệng trẻ. Vị ngọt sẽ kích thích các đầu thần kinh vị giác ở lưỡi bé. Em bé sẽ
đưa đi đưa lại lưỡi, đó là động tác tự làm sạch nấm Candida abicans ở lưỡi và
miệng.
Cách phân biệt Mật ong thật - Mật ong giả:
+ Lấy
một tờ giấy trắng sạch và bôi mật ong lên đó. Mật tốt sẽ thấm rất chậm, còn loại
giả thì chỉ vừa phết lên là thấm ướt ngay.
+ Mật ong giả là loại mật đã bị
hoà lẫn với nước đường, muối ăn, đạm hoá học, tinh bột, đường mạch nha... Mùi
thơm của nó nhạt, có thể có mùi lạ, khi nuốt thấy có cảm giác hơi vướng cổ. Còn
mật ong nguyên chất thì khi nhấm có vị ngọt đậm, mùi thơm đậm, ngọt nhưng không
ngấy.
+ Mật ong nguyên chất thì khi khuấy thấy rất mềm, thò ngón tay vào
không thấy cảm giác sạn, bỏ vào miệng nếm thì thấy tan rất nhanh. Còn mật ong
“chế biến” thì khi quấy có cảm giác cứng, khó tan.
+ Mật ong thật đặc quánh,
độ kết dính cao, thơm, có các màu trắng, vàng nhạt hay hồng nhạt, trông rất
trong.
+ Dùng chiếc đũa tre sạch khêu một ít mật ong rồi kéo thành sợi. Sợi
kéo dài sẽ đứt; nếu sau đó mật co lại thành cục tròn thì đó là loại tốt.
+
Dùng một que tre sạch khuấy đều lên, nếu trong mật ong có trộn lẫn các chất khác
thì bạn sẽ thấy màu đục hiện lên, còn mật ong chính hiệu thì không có hiện tượng
ấy.
+ Dùng một sợi thép hơ nóng đỏ lên chọc vào mật ong, nếu thấy sủi bọt phả
hơi lên thì đó là mật ong giả, người ta đã trộn lẫn khá nhiều nước.
+ Lấy một
phần mật ong và 5 phần nước quấy đều rồi đậy lại, để một ngày, nếu không thấy có
chất lắng xuống thì đó là mật ong tốt.
+ Lấy một phần mật ong, 2 phần nước
cơm, 4 phần cồn 95%, đem khuấy đều lên, đậy lại để trong một ngày đêm. Nếu có
chất tạp lắng xuống thì đó không phải mật ong tinh khiết, tạp chất lắng càng
nhiều phẩm chất càng kém.
Ghi chú:
+ Khi mật ong xuất hiện các
bọt khí thì không nên để lâu. Trong mật ong có một lượng đường khá lớn nên nó có
tính hút nước. Do sơ suất trong bảo quản, lượng nước trong mật ong tăng lên, nếu
vượt quá 20% thì làm cho nấm men phát triển nhanh và phân giải các thành phần
dinh dưỡng của mật khiến mật bị biến chất. Bọt khí xuất hiện là một dấu hiệu
chứng tỏ sự biến chất này. Mật tuy không phải là hỏng hẳn nhưng sẽ không giữ
được lâu.
+ Không bảo quản mật ong trong các đồ đựng bằng kim loại, vì
trong mật ong có acid hữu cơ và đường, dưới tác dụng của men, một phần các chất
này biến thành acid etylenic. Chất này ăn mòn lớp ngoài kim loại và làm tăng
thêm hàm lượng kim loại trong mật ong, làm mật biến chất. Thành phần dinh dưỡng
của mật ong bị phá hoại, người dùng dễ trúng độc với các triệu chứng lợm giọng,
nôn mửa...
Kiêng kỵ: Tỳ vị hư hàn (ỉa chảy) và hay đầy bụng thì không nên
dùng.
NHỮNG CHẾ PHẨM TUYỆT VỜI TỪ ONG
Một thìa mật ong hoà vào bát
sữa nóng để làm dịu cơn đau họng, một đợt điều trị với sữa ong chúa hoặc phấn
ong từ một số loài hoa để tăng cường cho hệ miễn dịch; keo ong để loại bỏ chứng
viêm mũi mạn tính.
Những sản phẩm này có tính chữa bệnh tự nhiên, có tính
năng được chứng minh một cách khoa học. Nếu keo ong là sản phẩm duy nhất được
mang tên là thuốc chữa bệnh thì mật ong, sữa ong chúa và phấn ong rất tốt cho
sức khoẻ dưới dạng phòng bệnh.
Chúng đều rất giàu các loại axit amin,
vitamin và nguyên tố vi lượng và nằm trong danh sách các chất bổ sung thực phẩm
tự nhiên tốt nhất, có khả năng phòng ngừa các chứng thiếu dinh dưỡng ngồn gốc
gây rối loạn sức khoẻ. Chúng ta rà soát lại chi tiết và kê đơn dùng với trợ giúp
của BS Pháp Yves Donadieu.
Mật ong, dung dịch tạo năng lượng nồng độ
cao
Mật ong là một thứ báu vật của thiên nhiên. Mật ong dễ tiêu hoá
và được cơ thể hấp thụ, tăng cường chức năng bộ máy tiêu hoá, điều chỉnh chức
năng tim và tăng thêm chức năng miễn dịch.
Tuỳ theo loài hoa nguồn cho
mật, mật ong có dạng lỏng ít, nhiều hay đậm đặc và có thêm các tính năng chữa
bệnh. Ví dụ, mật ong hoa cây keo được dùng cho rối loạn đường ruột. Mật ong hoa
dẻ tốt cho người bị lao lực và rối loạn đường huyết, mật ong hoa cải hương giúp
cho hệ hô hấp và thấp khớp.
Dùng như thế nào? Đưa mật ong vào bữa ăn hàng
ngày (1 thìa canh mỗi ngày): Phết lên bánh mỳ, hoà trong nước giải khát, pha với
sữa chua…
Keo ong chống nhiễm trùng
Keo ong do các con ong
thợ già tạo ra từ nhựa, chồi, lá cây, được dùng để hạn chế sự có mặt của vi
khuẩn trong tổ ong. Năm 1994, các nhà khoa học Nhật Bản đã chứng minh được tác
dụng kháng khuẩn và kháng sinh của keo ong. Keo ong tấn công vào tất cả các dạng
nhiễm trùng: Tai- mũi- họng, trong xoang miệng và đặc biệt là trong lĩnh vực
ngoài da, nơi mà keo ong có khả năng điều trị nhiều chứng bệnh về
da.
Dùng thế nào? Sử dụng dưới dạng gôm (như được chiết xuất tự nhiên),
dạng thỏi, dạng dung dịch nước- cồn, nhưng cũng có dạng bình xịt.
Sữa
ong chúa có tính kích thích cao
Sữa ong chúa là chất lỏng nhớt và có
màu trắng nhờ nhờ, được tiết ra từ tuyến của những con ong thợ non để nuôi con
ong chúa. Sữa ong chúa kích thích toàn bộ cơ thể, điều hoà sản sinh adrenalin,
tạo cân bằng cho hệ thần kinh, xua đuổi lo âu và cơn buồn ngủ. Tuyệt đỉnh trong
các tính năng dinh dưỡng là sữa ong chúa làm chậm quá trình lão hoá sớm của các
cơ quan và da.
Dùng thế nào? Tốt nhất là dùng khi còn tươi (pha trộn với
mật ong hoặc tạo thành bột sấy chân không) và nên dùng vào lúc đói, để tan dần
trên mặt lưỡi cho hấp thụ được các hoạt chất tới tối đa và một đợt điều trị là 6
tuần liên tục.
Phấn ong làm tăng trương lực
Phấn ong do ong
thu nhặt trong quá trình hút mật ong, được vo thành viên và tẩm thêm mật hoa,
đặt trong lỗ tổ ong. Phấn ong kích thích cơ thể nhờ nhiều chất protein. Các axit
amin có trong đó tác động đến sự mệt mỏi thể chất, trí tuệ và hàm lượng selen
cao làm chậm lão hoá tế bào.
Dùng thế nào? Tốt nhất ở dạng viên phấn ong
tự nhiên được sấy khô hoặc dạng tươi có bảo quản lạnh. Dùng hàng ngày, để giữ
được trương lực hoặc theo một đợt điều trị 3 tuần vào thời kỳ chuyển mùa để “tạo
phấn chấn” tinh thần. Phấn ong kết hợp với sữa ong chúa là dạng thuốc bổ toàn
diện do thiên nhiên ban tặng.
trần minh hiền
No comments:
Post a Comment