Wednesday, September 19, 2012

• Những Điều Lý Thú Về Ong Và Mật Ong

Trong thế giới sinh vật, ong là một sinh vật rất đặc biệt bởi khả năng sinh tồn và sinh hoạt cộng đồng, bầy đàn cũng như việc tạo mật ong từ việc hút mật hoa, và nhiều khả năng đặc biệt độc đáo khác. Nhiều nhà nghiên cứu đã kinh ngạc khi quan sát ong mật và những khả năng hết sức tài tình của chúng.

Sau đây là vài điều rất lý thú về ong.

Ong mật được biết đã tồn tại 30 triệu năm.

Đây là loài côn trùng duy nhất sản xuất thức ăn cho con người.
Ong mật thân thiện với môi trường và quan trọng như các loài thụ phấn.
Chúng là những côn trùng có tên khoa học là Apis mellifera.
Chúng có sáu chân, hai mắt, hai cánh, một túi mật, và dạ dày.
Các cánh của ong mật vỗ 11.400 lần mỗi phút, do đó, làm thành âm thanh đặc biệt của chúng.

Một con ong mật có thể bay cao đến sáu dặm và nhanh 15 dặm một giờ, do đó, nó sẽ phải bay khoảng 90.000 dặm - ba lần trên toàn cầu - để làm một pound mật ong.
Ong mật là loài ong duy nhất có các mắt kép có lông.

Một con ong mật thăm từ 50 đến 100 bông hoa trong một chuyến đi hút mật của nó.
Ong mật có thể cảm nhận chuyển động được phân cách bởi 1/300 của một giây. Con người chỉ có thể cảm nhận được chuyển động cách nhau bởi 1/50 của một giây. Nếu 1 con ong đi xem phim, nó chỉ có thể thấy từng thước phim riêng biệt.

Vòi chích của ong mật có một ngạnh neo ngòi trong cơ thể của nạn nhân. Ong sau khi chích bỏ lại ngòi và túi nọc độc phía sau và chết ngay vì vỡ bụng.
Ong mật liên lạc với nhau bằng cách "nhảy múa" để cung cấp phương hướng và khoảng cách của hoa.

Ong mật trung bình chỉ làm có một muỗng cà phê rưỡi mật ong trong suốt cuộc đời của nó.
Ong mật sản xuất sáp ong từ tám tuyến kết nối ở mặt dưới bụng của nó.
Ong mật phải tiêu thụ khoảng 17-20 kg mật ong để có thể sinh hóa sản xuất mỗi cân sáp ong.

Ong Chúa

Ong Chúa là con cái (con mái) duy nhất trong tổ để duy trì sự sinh sản.
Các Ong Chúa sống trong khoảng 2-3 năm và là con ong duy nhất đẻ trứng. Nó bận rộn nhất trong những tháng mùa hè, khi tổ ong cần phải có sức mạnh tối đa của nó, và đẻ tới 2.500 trứng mỗi ngày.
Một ong chúa đẻ 200.000 trứng trong một năm.

Trứng đã thụ tinh sẽ trở thành con cái, trong khi trứng không được thụ tinh sẽ trở thành con đực.

Ong Chúa có thể giao phối với 17 ong đực trong khoảng thời gian 1-2 ngày.
Ong Chúa lưu trữ tinh trùng từ những giao phối trong tử cung, do đó, nàng có một nguồn cung cấp suốt đời và không bao giờ cần tình nữa.

Một con ong chúa có thể kiểm soát dòng chảy của tinh trùng để thụ tinh cho một quả trứng. Ong mật có một hệ thống xác định giới tính di truyền bất thường được gọi là haplodiploidy. Những con ong thợ được sản xuất từ trứng thụ tinh và có một bộ (đôi) của nhiễm sắc thể. Những con đực, phát triển từ trứng chưa thụ tinh và do đó đơn bội với chỉ một bộ duy nhất của nhiễm sắc thể.

Ong Đực

Những con ong mật nam được gọi là drones, và chúng không làm công việc gì cả, không có ngòi chích, tất cả những gì chúng làm là giao phối.

Ong Thợ

Ong Thợ là những ong cái mà hệ thống tình dục ít phát triển.

Ong Thợ sống trong khoảng bốn tuần vào mùa xuân hoặc mùa hè, nhưng lên đến sáu tuần trong mùa đông.

Bộ não của một con ong thợ là một milimét khối, nhưng có mô neuropile đậm đặc nhất của các loại động vật.

Trong quá trình của cuộc đời mình, một con ong thợ sẽ sản xuất một muỗng cà phê rưỡi mật ong.

Con ong thợ chỉ chích, chỉ khi nó cảm thấy bị đe dọa và nó sẽ chết ngay sau khi chích.

Ong Chúa có một ngòi, nhưng không rời khỏi tổ để giúp bảo vệ nó.
Người ta ước tính rằng phải có 1100 mũi chích của con ong mật ong đốt mới có thể gây tử vong.

Bầy Ong

Một Bầy Ong, Tổ ong gồm 20,000-60,000 ong mật và ong chúa.
Mỗi bầy ong mật có một mùi duy nhất để xác định các thành viên.

Một tổ ong bao gồm các tế bào lục giác với những bức tường chỉ có 2/1000 inch dày, nhưng hỗ trợ 25 lần trọng lượng của mình.

Trong suốt mùa đông, những con ong mật ăn mật ong thu thập trong những tháng ấm hơn. Chúng tạo thành một cụm chặt chẽ trong tổ của mình để giữ ong chúa và tự làm ấm.

Ong là loài côn trùng có tổ chức xã hội cao như kiến, mối. Ong sống theo đàn, mỗi đàn đều có ong chúa, ong thợ, ong non,... và có sự phân công công việc rõ ràng. Ong có nhiều loài khác nhau, các loài được con người nuôi để khai thác sản phẩm như mật ong, sáp ong, sữa ong chúa,...

Ong thường sống thành đàn, nhiều nhất có khi tới 25.000 – 50.000 con, trong các tổ ở hốc cây, kẽ đá, bụi rậm, trong rừng, hoặc các tổ hòm cải tiến do người nuôi làm cho nó ở.

Tương tự như loài kiến và mối, tổ ong có ong chúa chuyên đẻ trứng, ấu trùng do trứng nở ra được nuôi bởi ong thợ (các con ong thợ này là các con cái mất khả năng sinh sản), những ấu trùng này sẽ lớn lên thành ong non và cuối cùng, trong đàn ong còn có ong đực, có số lượng rất ít trong tổ khoảng 200 con, chúng chết đi sau khi giao phối với ong chúa.

Ong chúa là con ong cái duy nhất có quyền đẻ trứng trong đàn ong, dài và to hơn các ong đực, ong thợ, cánh ngắn hơn thân, có nhiệm vụ đẻ trứng nhưng không làm ra mật, ong chúa nở từ một cái trứng như các trứng khác, nhưng ấu trùng được nuôi bằng tuyến nước bọt của ong thợ đặc biệt rất bổ, chứa trong một ổ riêng chỉ sử dụng cho ong chúa hoặc ong chuẩn bị phát triển thành ong chúa. Ong chúa sống 3 - 5 năm, mỗi tổ chỉ có một con ong chúa, nếu trong tổ có nhiều ong sẽ tách thành tổ mới, thường vào mùa xuân.

Ong đực to hơn ong thợ, làm nhiệm vụ giao phối với ong chúa mỗi khi ong chúa bay ra. Ong đực thường xuất hiện vào mùa hè và chỉ sống 1 - 2 tháng, sang mùa thu thì bị đuổi ra khỏi tổ mà chết do bị bỏ đói.

Ong thợ đông nhất, làm đủ mọi việc: lấy mật, nuôi ấu trùng, bảo vệ tổ, thường sống 2 - 6 tháng.

Ong mật

Con ong cho mật thuộc giống Apis (Apis mellifca, Apis cerana Fabr, Apis ligustica, Apis sinensis,...) hoặc các giống Maligona, Trigona,... đều thuộc họ ong (Apidae). Ong mật còn gọi là ong khoái, to con hơn, đốt đau, tổ thường ở các hốc cây, hốc đá, có thể bắt về nhà nuôi được.

Mật ong

Tên khoa học: Mel.
Tên khác: Phong mật (TQ) – Bách hoa tinh - Bạch hoa cao – Phong đường - Bạch mật - Thạch mật – Miel d’abeilles (Pháp) – Honey (Anh).
Mật ong là một chất lỏng sền sệt, do nhiều giống ong hút nhuỵ, mật của nhiều loại hoa đem về tổ chế biến mà thành.

KEO ONG TRỊ VIÊM LOÉT DẠ DÀY TÁ TRÀNG

Keo ong là nhựa của các loài cây (nhất là các chồi mầm) được con ong nghiền nát luyện với sáp mà thành, có màu nâu hay vàng sẫm.

Keo ong trị viêm loét dạ dày tá tràng:
- Nước keo ong: Keo ong 10g cắt nhỏ, cho vào 100ml nước sôi để nguội, chưng cách thủy, khuấy đều bằng đũa tre cho tan keo. Ngày dùng 3-4 lần, mỗi lần 30-40 giọt trước bữa ăn để chữa bệnh đau loét dạ dày - tá tràng.
- Rượu keo ong loại 10% và 30% được dùng điều trị cho các bệnh nhân bị nhiễm phóng xạ với kết quả rất tốt (theo các giáo sư người Nga V.M.Frelov và N.A.Perassadin).

Rượu keo ong 40% dùng trong thời gian dài với liều 5-10ml hằng ngày có tác dụng ức chế khối u, nhất là ung thư tuyến tiền liệt.

Ngoài ra, keo ong còn được dùng dưới dạng xông hơi, viên ngậm để điều trị các bệnh đường hô hấp như cúm, viêm họng, viêm phế quản, chứng hơi thở hôi, và có khả năng chống virus gây bệnh.

Ong dùng loại keo này để gắn các khung cầu của bánh tổ, bịt kín các khe hở và bọc lấy xác các côn trùng bị chết trong tổ ong. Nhờ đó mà tổ ong tránh được ẩm ướt do mưa, khỏi gió lạnh và không bị bẩn thỉu, hôi hám.

Thành phần hóa học của keo ong gồm 50-55% dầu nhựa, 8-10% tinh dầu, 30% hợp chất sáp và 5% phấn hoa.

Trong y học cổ truyền, keo ong được dùng với tên thuốc là phong giao, có vị nhạt, tính bình, có tác dụng sát khuẩn, kích thích hệ miễn dịch, bảo vệ và phục hồi sự phát triển của da.

Có thể dùng keo ong dưới các dạng thuốc sau:
- Dầu keo ong gồm keo ong 40% cắt nhỏ, trộn với dầu thực vật (dầu lạc hoặc dầu vừng) 60%, đun nhỏ lửa cho tan keo. Để nguội. Ngày bôi nhiều lần chữa các thể chàm và một số bệnh ngoài da khác như mụn rộp, eczema...

MẬT ONG

Tên khác: Bách hoa tinh, Bách hoa cao, Phong mật, Honey bee (Anh), Abeille de miel (Pháp).
Nguồn gốc: Là mật của Ong mật gốc Á (Apis cerana Fabricius) hay Ong mật gốc Âu (Apis melifera L.), họ Ong mật (Apidae).

Mật ong là một chất lỏng, đặc sánh, hơi trong, dính nhớt, có màu trắng đến màu vàng nhạt (gọi là mật trắng) hoặc có màu hơi vàng cam đến màu hổ phách (gọi là mật vàng). Mùa hạ, mật ong sáng bóng, trong như dầu. Về mùa đông, khi nhiệt độ xuống thấp, mật kết tinh một phần, giống như dầu sáp, chứa các hạt. Mùi thơm, vị rất ngọt.

Cách lấy mật ong: Ong làm mật quanh năm, nhưng mùa thu hoạch mật tốt nhất là mùa xuân-hạ. Ở VN, người sành nghề lấy mật ong ở thiên nhiên, có kinh nghiệm xem bụng ong để biết đã đến lúc thu hoạch mật chưa. Nếu bụng ong có mầu vàng nhạt là tổ mới bắt đầu làm, khắp bụng vàng óng là tổ đầy mật, bụng vàng sẫm là tổ đã hết mật. Khi đi rừng lấy mật ong, họ mang rễ Dừa theo người, rồi đốt lấy khói, hun lùa vào tổ ong. Khói rễ Dừa sẽ làm ong cay khó chịu, sẽ bay ra khỏi tổ. Lúc này, họ sẽ cắt tầng sáp chứa đầy mật một cách dễ dàng, rồi bóp, vắt, ép để lấy mật, lọc. Mật thu được có mầu vàng thẫm, xỉn đục, phẩm chất kém hơn vì có lẫn sáp, ấu trùng và một số tạp chất khác. Ở các cơ sở nuôi ong có quy mô công nghiệp, hiện nay người ta dùng máy ly tâm để lấy mật, vừa đỡ tốn công, được nhiều mật, vừa giữ nguyên được tầng sáp (ong không phải xây lại tổ), lại bảo đảm được chất lượng của mật.

Thành phần hoá học:

+ Đường Glucose và levulose (60-70%); saccarose (3-10%), mantose, oligosacarid
+ Vitamin B2, PP, B6
+ Men Diastase, catalase, lipase.
+ Các acid hữu cơ: acid Panthotenic, a.formic, tartric, citric, malic, oxalic…
+ Các chất khoáng và các nguyên tố vi lượng: Na, Ca, Fe, K, Mg, Cl, P, S, I, V, Bo, Cr, Cu, Zn, Pb, Li, Sn, Ti…
+ Các hormon, chất thơm, nước (18-20%)…
+ Albumin

Công năng: Bổ trung, nhuận táo, chỉ thống, giải độc, làm giảm độ acid của dịch vị.
Công dụng: Thuốc bổ, điều trị loét dạ dày, người suy nhược, phế ráo, ho khan, ruột ráo, táo bón.
Cách dùng, liều lượng: Ngày 10-50g dùng riêng hay phối hợp với các vị thuốc khác.

Bài thuốc:

1. Tăng sức đề kháng cho cơ thể, phòng chống nhiễm trùng. Hàng ngày nên ăn 5 thìa mật ong, có thể ăn với bánh mì hoặc uống với trà, sữa tươi.
2. Bồi bổ cơ thể: Mật ong đánh kem với lòng đỏ trứng gà, ăn mỗi ngày một quả sẽ làm da dẻ hồng hào, cơ thể khoẻ mạnh.
3. Hồi phục sức lực sau khi ốm dậy: Mật ong trộn với bột Tam thất ăn mỗi bữa một chén con có thể giúp.
4. Bị cảm cúm: Uống một cốc nước chanh nóng có pha thêm 2 thìa mật ong.
5. Trị ho: Một quả chanh tươi, khía kiểu múi khế ở ở lớp vỏ ngoài, sau đó cho một vài thìa cà phê mật ong cho ngấm đủ toàn bộ quả chanh trong một cái chén. Để khoảng 1-2 giờ sau đó cắt ra ngậm sẽ đỡ ho ngay.
6. Dùng ngoài khi da bị trầy xước: Làm sạch vết thương rồi bôi mật ong lên, vết xước sẽ mau lành và không bị nhiễm trùng hay sưng tấy.
7. Chữa viêm loét dạ dày: Mật ong trộn với bột nghệ đen (thể hàn), nghệ vàng (thể nhiệt) có thể ăn liền trong 1-2 tháng.
8. Tưa lưỡi trẻ em do nhiễm nấm Candida abicans: Dùng mật ong nguyên chất nhỏ 1 giọt vào miệng trẻ. Vị ngọt sẽ kích thích các đầu thần kinh vị giác ở lưỡi bé. Em bé sẽ đưa đi đưa lại lưỡi, đó là động tác tự làm sạch nấm Candida abicans ở lưỡi và miệng.

Cách phân biệt Mật ong thật - Mật ong giả:

+ Lấy một tờ giấy trắng sạch và bôi mật ong lên đó. Mật tốt sẽ thấm rất chậm, còn loại giả thì chỉ vừa phết lên là thấm ướt ngay.
+ Mật ong giả là loại mật đã bị hoà lẫn với nước đường, muối ăn, đạm hoá học, tinh bột, đường mạch nha... Mùi thơm của nó nhạt, có thể có mùi lạ, khi nuốt thấy có cảm giác hơi vướng cổ. Còn mật ong nguyên chất thì khi nhấm có vị ngọt đậm, mùi thơm đậm, ngọt nhưng không ngấy.
+ Mật ong nguyên chất thì khi khuấy thấy rất mềm, thò ngón tay vào không thấy cảm giác sạn, bỏ vào miệng nếm thì thấy tan rất nhanh. Còn mật ong “chế biến” thì khi quấy có cảm giác cứng, khó tan.
+ Mật ong thật đặc quánh, độ kết dính cao, thơm, có các màu trắng, vàng nhạt hay hồng nhạt, trông rất trong.
+ Dùng chiếc đũa tre sạch khêu một ít mật ong rồi kéo thành sợi. Sợi kéo dài sẽ đứt; nếu sau đó mật co lại thành cục tròn thì đó là loại tốt.
+ Dùng một que tre sạch khuấy đều lên, nếu trong mật ong có trộn lẫn các chất khác thì bạn sẽ thấy màu đục hiện lên, còn mật ong chính hiệu thì không có hiện tượng ấy.
+ Dùng một sợi thép hơ nóng đỏ lên chọc vào mật ong, nếu thấy sủi bọt phả hơi lên thì đó là mật ong giả, người ta đã trộn lẫn khá nhiều nước.
+ Lấy một phần mật ong và 5 phần nước quấy đều rồi đậy lại, để một ngày, nếu không thấy có chất lắng xuống thì đó là mật ong tốt.
+ Lấy một phần mật ong, 2 phần nước cơm, 4 phần cồn 95%, đem khuấy đều lên, đậy lại để trong một ngày đêm. Nếu có chất tạp lắng xuống thì đó không phải mật ong tinh khiết, tạp chất lắng càng nhiều phẩm chất càng kém.

Ghi chú:

+ Khi mật ong xuất hiện các bọt khí thì không nên để lâu. Trong mật ong có một lượng đường khá lớn nên nó có tính hút nước. Do sơ suất trong bảo quản, lượng nước trong mật ong tăng lên, nếu vượt quá 20% thì làm cho nấm men phát triển nhanh và phân giải các thành phần dinh dưỡng của mật khiến mật bị biến chất. Bọt khí xuất hiện là một dấu hiệu chứng tỏ sự biến chất này. Mật tuy không phải là hỏng hẳn nhưng sẽ không giữ được lâu.

+ Không bảo quản mật ong trong các đồ đựng bằng kim loại, vì trong mật ong có acid hữu cơ và đường, dưới tác dụng của men, một phần các chất này biến thành acid etylenic. Chất này ăn mòn lớp ngoài kim loại và làm tăng thêm hàm lượng kim loại trong mật ong, làm mật biến chất. Thành phần dinh dưỡng của mật ong bị phá hoại, người dùng dễ trúng độc với các triệu chứng lợm giọng, nôn mửa...
Kiêng kỵ: Tỳ vị hư hàn (ỉa chảy) và hay đầy bụng thì không nên dùng.

NHỮNG CHẾ PHẨM TUYỆT VỜI TỪ ONG

Một thìa mật ong hoà vào bát sữa nóng để làm dịu cơn đau họng, một đợt điều trị với sữa ong chúa hoặc phấn ong từ một số loài hoa để tăng cường cho hệ miễn dịch; keo ong để loại bỏ chứng viêm mũi mạn tính.

Những sản phẩm này có tính chữa bệnh tự nhiên, có tính năng được chứng minh một cách khoa học. Nếu keo ong là sản phẩm duy nhất được mang tên là thuốc chữa bệnh thì mật ong, sữa ong chúa và phấn ong rất tốt cho sức khoẻ dưới dạng phòng bệnh.

Chúng đều rất giàu các loại axit amin, vitamin và nguyên tố vi lượng và nằm trong danh sách các chất bổ sung thực phẩm tự nhiên tốt nhất, có khả năng phòng ngừa các chứng thiếu dinh dưỡng ngồn gốc gây rối loạn sức khoẻ. Chúng ta rà soát lại chi tiết và kê đơn dùng với trợ giúp của BS Pháp Yves Donadieu.

Mật ong, dung dịch tạo năng lượng nồng độ cao

Mật ong là một thứ báu vật của thiên nhiên. Mật ong dễ tiêu hoá và được cơ thể hấp thụ, tăng cường chức năng bộ máy tiêu hoá, điều chỉnh chức năng tim và tăng thêm chức năng miễn dịch.

Tuỳ theo loài hoa nguồn cho mật, mật ong có dạng lỏng ít, nhiều hay đậm đặc và có thêm các tính năng chữa bệnh. Ví dụ, mật ong hoa cây keo được dùng cho rối loạn đường ruột. Mật ong hoa dẻ tốt cho người bị lao lực và rối loạn đường huyết, mật ong hoa cải hương giúp cho hệ hô hấp và thấp khớp.

Dùng như thế nào? Đưa mật ong vào bữa ăn hàng ngày (1 thìa canh mỗi ngày): Phết lên bánh mỳ, hoà trong nước giải khát, pha với sữa chua…

Keo ong chống nhiễm trùng

Keo ong do các con ong thợ già tạo ra từ nhựa, chồi, lá cây, được dùng để hạn chế sự có mặt của vi khuẩn trong tổ ong. Năm 1994, các nhà khoa học Nhật Bản đã chứng minh được tác dụng kháng khuẩn và kháng sinh của keo ong. Keo ong tấn công vào tất cả các dạng nhiễm trùng: Tai- mũi- họng, trong xoang miệng và đặc biệt là trong lĩnh vực ngoài da, nơi mà keo ong có khả năng điều trị nhiều chứng bệnh về da.

Dùng thế nào? Sử dụng dưới dạng gôm (như được chiết xuất tự nhiên), dạng thỏi, dạng dung dịch nước- cồn, nhưng cũng có dạng bình xịt.

Sữa ong chúa có tính kích thích cao

Sữa ong chúa là chất lỏng nhớt và có màu trắng nhờ nhờ, được tiết ra từ tuyến của những con ong thợ non để nuôi con ong chúa. Sữa ong chúa kích thích toàn bộ cơ thể, điều hoà sản sinh adrenalin, tạo cân bằng cho hệ thần kinh, xua đuổi lo âu và cơn buồn ngủ. Tuyệt đỉnh trong các tính năng dinh dưỡng là sữa ong chúa làm chậm quá trình lão hoá sớm của các cơ quan và da.

Dùng thế nào? Tốt nhất là dùng khi còn tươi (pha trộn với mật ong hoặc tạo thành bột sấy chân không) và nên dùng vào lúc đói, để tan dần trên mặt lưỡi cho hấp thụ được các hoạt chất tới tối đa và một đợt điều trị là 6 tuần liên tục.

Phấn ong làm tăng trương lực

Phấn ong do ong thu nhặt trong quá trình hút mật ong, được vo thành viên và tẩm thêm mật hoa, đặt trong lỗ tổ ong. Phấn ong kích thích cơ thể nhờ nhiều chất protein. Các axit amin có trong đó tác động đến sự mệt mỏi thể chất, trí tuệ và hàm lượng selen cao làm chậm lão hoá tế bào.

Dùng thế nào? Tốt nhất ở dạng viên phấn ong tự nhiên được sấy khô hoặc dạng tươi có bảo quản lạnh. Dùng hàng ngày, để giữ được trương lực hoặc theo một đợt điều trị 3 tuần vào thời kỳ chuyển mùa để “tạo phấn chấn” tinh thần. Phấn ong kết hợp với sữa ong chúa là dạng thuốc bổ toàn diện do thiên nhiên ban tặng.

trần minh hiền

No comments:

Post a Comment